SCIENCE - TECHNOLOGY DEVELOPMENT AND INNOVATION CENTER TRUNG TÂM PHÁT TRIỂN KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ VÀ ĐỔI MỚI SÁNG TẠO

Xây dựng mô hình ứng dụng công nghệ sinh học sản xuất chế phẩm vi sinh vật Compost masker xử lý phế phụ phẩm nông nghiệp tại Hải Phòng


Xây dựng mô hình ứng dụng công nghệ sinh học sản xuất chế phẩm vi sinh vật Compost masker xử lý phế phụ phẩm nông nghiệp tại Hải Phòng

Thông tin chi tiết

  • Ngày đăng: 25/01/2021
  • Mã số: NTMN.DA.ĐP.01-2012
  • Mục nghiên cứu: Nhiệm vụ KHCN công nghệ cấp thành phố
  • Chủ nhiệm dự án: Ts. Đoàn Hữu Thanh
  • Thời gian thực hiện: 2012-2014

Chi tiết

Trung tâm đã tiếp nhận các quy trình công nghệ do Viện Môi trường Nông nghiệp (Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam) chuyển giao để thực hiện dự án “Xây dựng mô hình ứng dụng công nghệ sinh học sản xuất chế phẩm vi sinh vật Compost maker xử lý phế phụ phẩm nông nghiệp tại Hải Phòng” trong khuôn khổ Chương trình “Hỗ trợ ứng dụng và chuyển giao tiến bộ khoa học và công nghệ phục vụ phát triển kinh tế - xã hội nông thôn và miền núi giai đoạn 2011-2015”.

Dự án đã xây dựng được mô hình sản xuất chế phẩm vi sinh vật Compost maker đạt công suất 10 tấn/năm trên quy mô nhà xưởng 94,4 m2. Lượng chế phẩm sản xuất được trong thời gian triển khai dự án đảm bảo các yêu cầu về chất lượng và thời gian bảo quản là 2,2 tấn, vượt chỉ tiêu ban đầu (2 tấn).

Chế phẩm được ứng dụng xử lý 420 tấn phế phụ phẩm trồng trọt (rơm rạ) và 150 tấn phế phụ phẩm chăn nuôi (phân bò/lợn/gà) thành phân hữu cơ sinh học tại 3 xã Đồng Thái (huyện An Dương), Kiến Thiết (huyện Tiên Lãng) và An Thọ (huyện An Lão). Kết quả đã thu được 250,3 tấn phân hữu cơ sinh học giàu dinh dưỡng, tơi xốp, không chứa nấm mốc và đạt các tiêu chuẩn bắt buộc đối với phân bón hữu cơ sinh học theo quy định hiện hành.

Với mô hình sử dụng phân hữu cơ sinh học bón cho cây trồng nhằm tăng khả năng hấp thụ dinh dưỡng cho cây, tăng năng suất đã đạt các mục tiêu đề ra. Mô hình được áp dụng trên 3 đối tượng: rau, hoa và lúa với tổng diện tích 3 ha. Trên cây rau (su hào và cải ngọt), mô hình cho năng suất cao hơn sản xuất đại trà từ 1,16-1,2 lần. Đối với hoa lily giống Sorbonne thương phẩm, mô hình cho cây sinh trưởng và phát triển tốt, các chỉ tiêu về năng suất, chất lượng (số hoa/cây, tỷ lệ nở hoa, độ bền hoa tự nhiên, đường kính hoa,…) đều cao hơn so với đại trà. Trên cây lúa, phân bón hữu cơ sinh học có vai trò giữ ấm chân mạ, thúc đẩy sinh trưởng, giúp thân cây cứng, bộ lá khỏe, hạn chế sâu bệnh gây hại khi gặp điều kiện thời tiết bất thuận.


Theo những số liệu tổng hợp được đưa ra, cả 3 mô hình đều mang lại hiệu quả kinh tế rõ rệt, bên cạnh đó là những hiệu quả về xã hội, môi trường. Việc sử dụng phân hữu cơ sinh học bón cho cây trồng đã hạn chế được lượng phân hóa học sử dụng trong nông nghiệp, từ đó tác động tích cực tới môi trường sinh thái. Dự án đã giúp người dân chủ động sản xuất được nguồn phân hữu cơ sinh học tại chỗ phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, đồng thời tạo thêm công ăn việc làm cho một bộ phận lao động. Dự án cũng đã đào tạo được 4 kỹ thuật viên cơ sở trên địa bàn triển khai các mô hình.
Với những hiệu quả thiết thực và tính ứng dụng cao, dự án được Hội đồng khoa học đánh giá xếp loại xuất sắc và khuyến khích nhân rộng.

Trung tâm Phát triển KHCN và Đổi mới sáng tạo